TP. Huế: Bao giờ bà Lê Thị Hường lấy lại được căn nhà do chính bà mua..?
Trong Đơn Kêu cứu bà Hường có viết: “Trong quá trình làm nghề uốn tóc nữ tôi đã dành dụm được một số tiền để mua nhà. Ngày 18/12/1990 tôi có ký hợp đồng mua bán một ngôi nhà diện tích 88,2 m2 tọa lạc tại Tam Tây - Xã Thủy An trước đây, nay là 69 An Dương Vương - Thành Phố Huế của Vợ chồng Ông Nguyễn Đình Thanh và Bà Hoàng Thị Lài, với giá 7,68 triệu đồng. Hợp đồng mua bán này được Chủ tịch UBND xã Thủy An (nay là phường An Đông) chứng thực nói rõ tôi Lê Thị Hương (độc thân) mua nhà đất nói trên. Sau khi mua nhà, tôi là người đăng ký, kê khai nhà ở và quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Hồ sơ của bà Lê Thị Hường gửi tới Tòa soạn |
Trên giấy tờ mua bán đều đứng tên tôi vì đây là tài sản riêng của tôi. Tại thời gian này tôi đang sống với mẹ tôi là bà Nguyễn Thị Đậu tại số nhà 06 Đường Ngự Bình - Phường An Cựu - Thành Phố Huế. Do đang ở cùng với mẹ, nên ngôi nhà tôi mua ở Tam Tây - Xã Thủy An, tôi cho vợ chồng anh rể là Dương Văn Long và Vợ là Lê Thị Vui cùng hai cháu đến ở trông coi nhà cho tôi.
Trong thời gian hành nghề cắt tóc, từ năm 1991, tôi có quen ông Nguyễn Đức Cư, quê ở xã Lộc Bổn, huyện Phúc Lộc. Ông Cư tỏ tình thương yêu tôi, hứa hẹn sẽ kết hôn cùng tôi. Là con gái, nhẹ dạ cả tin trước lời đường mật của ông, tôi đã chấp nhận quan hệ với ông khi chưa được gia đình và pháp luật công nhận. Tôi và ông Cư có 3 người con chung (1 trai và 2 gái. Cụ thể con trai đầu sinh ngày 7/11/1991; 2 con gái sinh ngày 6/3/1994 và sinh 26/10/2002). Sau này, tôi mới biết ông Cư đã có vợ cùng 03 con đang sinh sống ở địa chỉ 64/12 Mai Thúc Loan - Phường Thuận Lộc - Thành Phố Huế.
Ngày 06/03/1994, tôi sinh con gái thứ hai thì mẹ con tôi chuyển hộ khẩu về tại Thôn Tam Tây - Xã Thủy An - Thành Phố Huế - Thừa Thiên Huế. Hồ sơ hộ khẩu 716 quyển 2 tờ 48.
Năm 1999, Nhà nước mở rộng Quốc lộ 1A giải tỏa mặt bằng, nhà ông Châu, ở trước nhà tôi bị giải tỏa gần hết chỉ còn lại bức tường và diện tích đất dài 7,5m, sâu 0,8m, Tôi đã mua lại diện tích đất có bức tường này với giá 13,7 triệu đồng, phá dỡ bức tường để nhà tôi thành mặt tiền đường An Dương Vương.
Tháng 9/1999, Nhà nước có chủ trương cấp Giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở, tôi có nhờ ông Cư đi làm thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận giúp. Tôi giao Giấy mua bán nhà năm 1990 (bản chính). Giấy bán nhà (theo mẫu), Phần người bán: dòng người chồng, là ông Nguyễn Đình Thanh; dòng người vợ, là bà Hoàng Thị Lài. Phần người mua: dòng người chồng (để trống - vì tôi chưa có chồng), dòng người vợ, thì ghi tên tôi là Lê Thị Hường. UBND xã Thủy An chứng thực phía dưới ghi cụ thể tên tôi Lê Thị Hường (độc thân) mua ngôi nhà trên.
Lợi dụng dòng người chồng ở mục người mua để trống, ông Nguyễn Đức Cự đã điền họ tên ông vào dòng người chồng vào Giấy mua bán nhà của tôi năm 1990. Coi như năm 1990 tôi và ông Cự mua nhà đất tại 69 An Dương Vương.
Cả hai phiên tòa (sơ thẩm và phúc thẩm) đều không công nhận tôi và ông Cự là vợ chồng; Về các con tôi là người trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng. Trong khi đó, nhà đất ở 69 An Dương Vương do tôi tự mua năm 1990, thì Tòa lại cho đó là tài sản chung và chia cho ông Cự ½ nhà đất đó. Mặc dù tại 2 phiên tòa tôi đều đã chưng ra các tài liệu liên quan khẳng định ngôi nhà 69 An Dương Vương tôi mua là tài sản riêng của tôi trước khi có quan hệ với ông Cự.
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình tôi đã nhiều lần làm đơn gửi đến Viện KSND tối cao, TAND tối cao; Ủy ban Pháp luật của Quốc Hội, Ủy ban Tư pháp của Quốc Hội cũng đã làm văn bản chuyển đơn của tôi về TAND tối cao, đề nghị xem xét theo thủ tục Giám đốc thẩm bản án nói trên. Nhưng TAND tối cao, Viện KSND tối cao không xem xét.
Ngày 31/8/2011, Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an có kết luận giám định Giấy thỏa thuận mua và bán nhà ghi ngày 18/12/1990, Đơn xin mua nhà ngày 17/12/1990, kết luận ông Nguyễn Đức Cư là người viết thêm họ tên ông vào dòng chữ người chồng, trong giấy mua bán nhà ngày 18/12/1990.
Khi có kết luận Giám định, tôi có làm đơn kính gửi ông Chánh án TAND tối cao, ông Viện trưởng VKSND tối cao đề nghị kháng nghị bản án nói trên theo thủ tục tái thẩm.
Ngày 26/08/2016, Vụ 12 VKSND tối cao đã có công văn số 32/VC2 – V2 gửi Viện Kiểm sát cấp cao tại Đà Nẵng kèm theo đơn ngày 19/08/2016 của tôi để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
Thì đến ngày 4/10/2018 ông Phan Hữu Hoàng chức vụ Phó viện trưởng Viện kiểm sát cấp cao tại Đà Nẵng ký thông báo số 310/TB-VKS-V2, thông báo hết thời hạn.”.
Sau khi nghiên cứu đơn, hồ sơ, ngày 12/08/2019, Tạp chí điện tử Hòa nhập đã có Công văn số 152/2019/CV-ĐTHN chuyển đơn (kèm theo hồ sơ) của bà Lê Thị Hường tới Ông Nguyễn Hòa Bình - Ủy viên Ban Bí thư Chánh án Tòa án nhân dân tối cao để giải quyết theo thẩm quyền.
Tạp chí điện tử Hòa nhập thông báo để bà Lê Thị Hường được biết./.
Tạp chí điện tử Hoà Nhập, cơ quan ngôn luận của Hiệp hội Doanh nghiệp của Thương binh và NKT Việt Nam, liên tục cập nhật thông tin liên quan về lĩnh vực kinh doanh của Thương binh và Người khuyết tật như: Đầu tư, kinh doanh, thương mại, dịch vụ, bất động sản, sức khỏe. Ngoài ra, Tạp chí cũng xin giới thiệu tới độc giả những bài viết về chính sách cho người có công, tấm gương thương binh, người khuyết tật vượt khó, doanh nhân thương binh, người khuyết tật tiêu biểu, doanh nghiệp của thương binh và người khuyết tật. Kính mời độc giả đón đọc. Mọi ý kiến đóng góp và chia sẻ xin liên hệ qua email tapchihoanhap@gmail.com.